Nghĩa Vụ Bảo Vệ Bờ Cõi Việt Nam (2/2)

Nguyễn Đình Sài

 

Phần Hai: Phân Tích
I.- Các cuộc nhượng bộ của Hà Nội đối với Bắc Kinh
    Viết về các cuộc thương thảo giữa Bắc Kinh và Hà Nội không đơn giản và dễ dàng. Lý do chính là Hà Nội giữ nội dung các cuộc thương thảo vô cùng bí mật. Đảng CSVN lúc nào cũng tự xem là đại diện nhân dân, nhưng không bao giờ hỏi ý hay báo cáo cho nhân dân được rõ. Các tài liệu, vì thế phần lớn được sưu tầm từ báo chí quốc tế hay thư khố Trung Quốc. Ta có thể suy đoán rằng đảng CSVN phạm nhiều trọng tội đối với nhân dân nên phải triệt để dấu kín những gì đã thỏa thuận đối với Trung Quốc. Điều này sẽ được trưng dẫn trong phần này. Tuy nhiên, trước hết ta hãy tìm hiểu về những nguyên nhân bề mặt cũng như bề trái của Trung Quốc khi xâm lấn lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam.
1- Tham vọng bá quyền của Trung Quốc
        - Bành trướng biên giới lãnh thổ
Khi cử đại quân xâm lấn bờ cõi Việt Nam, Bắc Kinh đã đưa ra một số lý do mà họ cho là "tự vệ chính đáng," như sau:
* Cảnh cáo Hà Nội không được nuôi tham vọng thôn tính Lào và Campuchia. Vào thời gian đó đảng CSVN đã cho quân tràn sang đánh duổi Polpot, thủ lãnh Khemer Đỏ thân Trung Cộng nói là để cứu dân campuchia khỏi nạn diệt chủng. Ở Lào, CSVN cũng đã thiết lập một chính phủ thân Hà Nội. Đối với Bắc Kinh, thế liên hiệp ba nước Việt Miên Lào có nguy cơ trở thành liên bang Đông Dương sẽ ngăn chặn mộng bá quyền của Trung Quốc về phía nam.
* Phá vỡ thế liên hiệp hỗ tương giữa Liên Sô và Việt Nam. Ngày 3 tháng 11, 1978, Moscow và Hà Nội ký hiệp ước quốc phòng, mở đầu cho sự hiện hữu thường trực của quân đội Soviet Union (Liên Sô) tại hải cảng Cam Ranh. Theo tài liệu chính phủ Mỹ, bắt đầu từ tháng 9-1978, Liên Sô bắt đầu gia tăng việc chuyên chở vũ khí cho Việt Nam cả đường biển lẫn đường bay (Bruce Elleman, "Sino-Soviet Relations" 20 April 1996.) Đây là thế gọng kềm chiến lược mà Bắc Kinh rất lo sợ. Trong khi đó cuộc tranh chấp biên giới giữa Liên Sô và Trung Quốc vào cuối thập niên 60 càng ngày càng thêm căng thẳng. Như vậy, cuộc xâm lấn biên thùy Việt Nam của Trung Quốc còn có hai mục tiêu chiến lược. Một là biểu thị cho Hà Nội thấy rằng "sự cam kết của Soviet trong việc bảo đảm yểm trợ quân sự cho Việt Nam" chỉ là một điều không tưởng. Hai là giải đáp bài toán cân não: Soviet có thật sự là một siêu cường đáng sợ không, hay chỉ là một con gấu giấy "paper polar bear." Điều đáng lưu ý là: Sau cuộc lấn chiếm biên giới Việt Nam từ 15 tháng 2 đến 4 tháng 3, 1979, gần một tháng sau, ngày 3 tháng 4, Bắc Kinh tuyên bố chấm dứt Hiệp ước Liên Sô - Trung Quốc ký năm 1950 về Hữu Nghị, Liên Minh, và Hỗ Tương giữa hai nước.
* Cảnh cáo Hà Nội áp dụng chính sách "kỳ thị" với người Hoa Kiều sinh sống lâu đời tại Việt Nam như ở Chợ Lớn, Hải Phòng, v.v..., Từ đầu năm 1978, trên nửa triệu người Việt gốc Hoa đã phải ra đi "vượt biên bán chính thức," để lại nhà cửa, gia tài, của cải cho đảng viên cao cấp đảng CSVN thu gom và chia chác.



    Tuy nhiên, những lý do "tự vệ" hay "công đạo" mà Trung Quốc nêu ra chỉ là vỏ bọc của một âm mưu thâm độc, và cuộc lấn chiếm biên thùy Việt Nam chỉ là bước đầu của một kế hoạch "Đại Trung Quốc" mà Bắc Kinh bắt đầu theo đuổi từ thập niên 50.
Năm 1950, một năm sau ngày dành được đất nước từ tay Tưởng Giới Thạch và Trung Hoa Quốc Dân Đảng để chính thức thành lập nước "Trung Hoa Cộng Hòa Nhân Dân Quốc," Trung Quốc đã công bố một bản đồ rộng lớn (hình 15: "Paracels Forum," Muzi Daily News, 6/26/01), bao trùm một phần lớn các quốc gia tiếp giáp với Trung Quốc như: (tính từ Tây bắc theo chiều kim đồng hồ) Mongolia, East Russia, Đại Hàn, Việt Nam, Lào, Miên, Thái Lan, Tây Tạng, Miến Điện, Bhutan, Nepal, một phần nhỏ của Ấn Độ, Pakistan, và Kyrgyzstan. Đây là một sự kiện chưa hề được ghi lại trong tài liệu thư khố ở bất cứ quốc gia tây phương nào. Bắc Kinh chỉ tuyên bố mơ hồ rằng biên giới và lãnh hải này có từ thời nhà Hán (khoảng thế kỷ thứ 2 trước Công Nguyên).
- Bành trướng lãnh hải
Theo bản đồ với những ghi chú bằng chữ Trung Hoa, thì Trung Quốc không những dành chủ quyền cả các biển tiếp giáp với Trung Quốc như Korea Bay, Yellow Sea (bắc Thượng Hải), East China Sea (Bao gồm Đài Loan), South China Sea (Biển Đông của Việt Nam), mà còn lấn sang cả Vịnh Thái Lan, và một phần của Ấn Độ Dương nữa.
Trong một tài liệu khác (hình 16) từ U.S. International Institute for Strategic Studies (IISS - FAS, January 30, 2000), Mao Trạch Đông đã chỉ thị cho Chu Ân Lai ra tuyên cáo xác nhận chủ quyền trên toàn thể "Nanhai" là "nội hải," và hai quần đảo "Xisha" và "Nansa" là lãnh thổ của Trung Quốc. 

 

      Mặt khác, cũng theo thống kê của IISS, Trung Quốc đang nuôi dưỡng một đạo quân gần 3 triệu người. Với một lực lượng hùng hậu như vậy, cộng thêm tham vọng bành trướng lãnh thổ bằng vũ lực, Trung Quốc là mối đe dọa sinh tử hàng đầu cho các nước trong vùng Đông Nam Á, nhất là Việt Nam. Hiện nay, Trung Quốc theo chiến lược lấy sức mạnh để uy hiếp từng nước yếu, chỉ chịu thương thuyết song phương mà không chịu thương thuyết đa phương, không để các nước đưa Trung Quốc vào thế "mãnh hổ nan địch quần hồ."
Trong khi đó, đảng CSVN đã đối phó như thế nào trong các vụ thương thảo với Trung Quốc từ trước đến nay? Họ đã "đối phó" bằng cách nhượng bộ tiên tục để trục lợi và củng cố thế lực của đảng. Đây là vấn đề sẽ được phân tích kế tiếp.   


Bản đồ chín gạch do Bắc Kinh phổ biến.Bản đồ lãnh hải 9 gạch của Trung Quốc ban hành ngày 4-9-58

    2- Những nhượng bộ của Việt Cộng
        - Nhượng bộ quần đảo Hoàng Sa
Năm 1974, khi Trung Cộng tiến chiếm Hoàng Sa và VNCH chống trả mãnh liệt, thì Hà Nội hoàn toàn im lặng.
Năm 1975, VNCH ban hành bạch thư và tuyên cáo xác nhận chủ quyền trên hai quần đảo với quyết tâm bảo vệ bờ cõi. Bản tuyên cáo có đoạn mở đầu như sau:
‘‘Bổn phận cao cả và cấp bách nhất của một chính phủ là bảo vệ chủ quyền, độc lập, và sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa quyết tâm thi hành bổn phận này, mặc cho bao khó khăn gặp phải và mặc cho những trở ngại đến bất cứ từ đâu. Đối diện với cuộc lấn chiếm bằng vũ lực bất hợp pháp của Trung Cộng trên quần đảo Hoàng Sa, một phần của lãnh thổ nước Việt Nam Cộng Hoà, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thấy cần tuyên cáo trước dư luận thế giới, bạn cũng như thù, rằng: Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một phần bất khả phân của nước VNCH. Chính phủ VNCH sẽ không nhượng bộ trước vũ lực và chịu mất chủ quyền trên các quần đảo này."
(‘‘The noblest and most imperative task of a Government is to defend the sovereignty, independence and territorial integrity of the Nation. The Government of the Republic of Vietnam is determined to carry out this task, regardless of difficulties it may encounter and regardless of unfounded objections wherever they may come from.
In the face of the illegal military occupation by Communist China of the Paracels Archipelago which is an integral part of the Republic of Vietnam, the Government of the Republic of Vietnam deems it necessary to solemnly declare before world opinion, to friends and foes alike, that: The Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa (Spratly) archipelagoes are an indivisible part of the territory of the Republic of Vietnam. The Government and People of the Republic of Vietnam shall not yield to force and renounce all or part of their sovereignty over those archipelagoes.")


Hình 18: CSVN ký văn thư nhượng đảo và biển ngày 14-9-58

    Trong khi đó, Hà Nội vẫn giữ thái độ im lặng, vì Hà Nội đã có quá nhiều thương lượng và nhượng bộ bí mật từ trước, mãi sau này mới lộ ra.
Những nhượng bộ của đảng CSVN đối với Trung Quốc có thể được truy nguyên từ lòng ham muốn ‘‘thống nhất lãnh thổ" của đảng từ năm 1955, khi hai nước Trung Quốc và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ký hiệp ước hữu nghị và hỗ tương. Từ đó đến 1975, Bắc Kinh đã viện trợ cho Hà Nội trên 20 tỷ Mỹ Kim (King C. Chen, Chiana’s War with Vietnam). Đương nhiên, Hà Nội phải trả nợ bằng cách này hay cách khác. Tiền và tài nguyên không có để trả thì phải trả bằng lãnh hải và lãnh thổ, nhất là lãnh thổ đang nằm trong vòng kiểm soát của Việt Nam Cộng Hòa.
Dấu hiệu khởi đầu của hành động ‘‘trả nợ" này là văn thư nhượng đảo và nhượng biển của Thủ Tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng, ký ngày 14-9-58, để đáp ứng với bản tuyên bố về lãnh hải và ‘‘bản đồ chín gạch" (the nine dash map - hình 17) của Trung Quốc ban hành 10 ngày trước đó, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và một lãnh hải bao bọc gần hết bờ biển Việt Nam, lan ra tận Phi Luật Tân, chạy dài xuống tận bờ biển Nam Dương, Mã Lai.
Đọc câu đầu của văn thư Phạm Văn Đồng gởi cho Chu Ân Lai (hình 18) "Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc." Người ta thấy ngay đã có sự thương thảo và thỏa thuận bí mật giữa Bắc Kinh và Hà Nội từ nhiều ngày trước, và sự di nhượng đất nước Việt Nam phát nguyên từ tham vọng thống nhất đất nước của Đảng CSVN.
- Nhượng bộ biên giới Hoa Việt 1979
Như các phần trên đã trình bày, trận xâm chiến của Trung Quốc vào biên giới phát nguyên từ nhiều nguyên do, trong đó, tham vọng lấn chiếm và thôn tính các nước láng giềng là động cơ thầm kín còn mục tiêu phá vỡ hiệp ước liên kết của Liên Sô - Việt Nam ký vào năm 1978 là lý do bên ngoài. Dĩ nhiên, vì đã lỡ chọn theo Liên Sô và trở thành kẻ thù của Trung Quốc, Hà Nội phải kháng cự vì sự sống còn của chế độ, chứ không phải để bảo toàn đất nước. Bằng cớ CSVN xem nhẹ về sự vẹn toàn lãnh thổ được nêu lên bằng một chuỗi thảo luận và tương nhượng sau khi Trung Cộng rút quân về. Kết quả sau 15 lần thương thảo là việc CSVN thỏa thuận nhường cho Trung Quốc 720 km vuông ở vùng Lạng Sơn mà nhiều cán bộ CSVN trong nước đã tố cáo lãnh đạo đảng. Nhưng diện tích này chỉ tính ở biên giới Nam Quan vùng Đồng Đăng tỉnh Lạng Sơn mà thôi. Theo tài liệu từ Trung Quốc mà giáo sư Trần Đại Sỹ thu thập, thì cổng Hữu Nghị đã bị dời về phía nam, cách ải Nam Quan 5 cây số, và nằm trong địa phận của quận Đồng Đăng (hình 19). Hiện nay, trạm ga xe lửa xuyên quốc gia đặt tại Đồng Đăng là trạm kiểm soát của hai bên (hình 20 - Vietnam and China Rebuild Ties, The Christian Science Monitor - International, Oct 3, 1997).
Đó là chưa kể bề dày của biên giới mới khoảng 600 m cũng nằm trong lãnh thổ Việt Nam. Du khách từ nước này phải đi bộ giữa 2 trạm mới qua được biên giới nước kia.
Trên thực tế, diện tích đất đai mất mát lên hàng ngàn cây số vuông, nếu tính cả các vùng phải di nhượng ở Cao Bằng và Lào Kay. Theo tài liệu Pacific Forum CSIS Comparative Connections, cuộc thương thảo lần cuối (thứ 15) giữa hai bên Việt Hoa kéo dài một tháng từ 22-6 đến 22-7-1999. Hai bên nỗ lực làm việc để kịp thời hạn ký kết hiệp ước vào cuối năm theo lệnh của các chủ tịch đảng. Mất thời gian nhất là một số "bất đồng ý kiến về ranh giới trong 76 vùng tranh chấp." Lược qua các ghi chép (chronology) của CSIS về các cuộc thăm viếng qua lại giữa đôi bên, hay các cuộc thảo luận song phương, người ta thấy rất rõ là Hà Nội luôn luôn ở thế bị động và sau những lần dằng co từ chối, đều phải chấp nhận những đòi hỏi của Bắc Kinh. Kết quả, hiệp ước biên giới song phương đã được bộ trưởng ngoại giao Tống Gia Xuân và Nguyễn Mạnh Cầm ký vào ngày cuối năm (30-12-1999).
Ngày 29-4-2000, quốc hội Trung Quốc thông qua hiệp ước; ngày 9 tháng 6, 2000, quốc hội CSVN cũng thông qua. Hiển nhiên là hai bên đều được lợi: Trung Quốc được chủ quyền các vùng đất huyết mạch kiểm soát một số vùng nằm phía bắc các sông Kỳ Cùng và sông Bằng, hầu có thể mở tung cánh cửa vào phía nam, mà mấy ngàn năm qua các cuộc xâm lăng từ phương Bắc thường bị chặn vì địa thế hiểm trở.
Khi đất đã nhượng thì cũng nhượng luôn cả dân bản xứ, ai không muốn sống trong vùng quản chế của Trung Quốc thì được giúp đỡ tái định cư trên đất hoang ở ranh giới phía nam các sông Kỳ Cùng và sông Bằng.
Khi nhượng đất như thế thì Hà Nội được lợi gì? Theo tiết lộ của nhật báo Xinhua, món lợi đưa đến từ cuộc di nhượng đất đai này là việc giao thương lên đến hàng tỷ mỹ kim và việc Bắc Kinh viện trợ cho Hà Nội xây dựng các dự án kỹ nghệ về thủy lực (hydropower), thép, hơi đốt, phân bón và quặng nhôm (bauxite).
Có người đặt vấn đề rằng nếu Hà Nội phải hy sinh vài ngàn cây số đất hoang mà được viện trợ như thế thì đó là việc "thuận mua vừa bán" và việc "bán nước" không còn là một "tội" như những người khác buộc. Lý luận như thế có hai điều không chỉnh: Thứ nhất, đất nước là của dân tộc, không phải của bất cứ một chế độ nào. Chế độ không có quyền cắt nhượng đất đai của dân tộc cho người để được lợi trong thời đại của mình. Thứ hai, lý luận "thuận mua vừa bán" mặc nhiên chấp nhận tính cách đổi chác của Bắc Kinh trong việc "mua" đất của dân tộc Việt Nam bằng một cái giá được nhà cầm quyền CSVN chấp nhận, do đó sẽ rất khó cho dân tộc Việt Nam đặt vấn đề bất công để đòi lại sau khi chế độ hiện hữu cáo chung. Thực tế cho thấy Bắc Kinh vừa dùng vũ lực, vừa mua chuộc, vừa gạt gẫm lãnh đạo Hà Nội để chiếm cho bằng được các vùng đất có quặng mõ quý và có địa lợi chiến thuật, làm đầu cầu xâm lược sau này.
Trong bản tường trình của Giáo sư Trần Đại Sỹ, ông đã nêu lên những "nghi vấn" về vụ một số nhân vật lãnh đạo cao cấp "thân Nga chống Hoa" đã bị đầu độc, trở thành "bán thân bất toại." Nếu những nghi vấn này có thật, thì cũng chẳng bao giờ có thể trở thành những vụ án được cứu xét. Trong chế độ cộng sản, không bao giờ có "công lý" cho người ngã ngựa.
- Nhượng bộ một phần vịnh Bắc Việt
Vụ nhượng đất vừa xong thì tiếp đến vụ sang nhượng một phần biển trong vịnh Bắc Việt (Tonkin Bay). Theo Luke T. Chang, (China’s Boundary Treaties and Frontiers Disputes), hiệp ước Pháp - Thanh được ký kết tại Bắc Kinh trên 100 năm trước, ngày 26-6-1887, có ghi rõ đường phân ranh giới hải phận EEZ (Exclusive Economic Zone) trong vịnh Bắc Việt được lấy theo đường kinh tuyến (longgitude) 108o03’18"E (tính từ Greenwood) khởi đầu từ biên giới bờ biển giữa hai nước tại Vịnh Tonkin. Bắc Kinh không đồng ý tuân theo hiệp ước cũ và đòi hỏi Việt Nam phải chấp nhận lấy đường trung tuyến để ấn định lãnh hải EEZ giữa hai nước. Tuy nhiên đường trung tuyến của Bắc Kinh dựa trên đảo Hải Nam và bờ biển Việt Nam, trong khi Hà Nội chủ trương trung tuyến nằm giữa hai đảo Bạch Long Vĩ và Hải Nam. Tính ra, sự khác biệt là vùng màu xám ở giữa vịnh, với một diện tích trên 5 ngàn cây số vuông (hình 21).


Sau một năm thảo luận, Hà Nội lại phải nhượng bộ, chịu hủy bỏ hiệp ước Pháp-Thanh, chịu mất độc quyền kinh tế trong vùng xám. Vùng này nằm trong thềm lục địa của Việt Nam, rất gần với đảo Bạch Long Vĩ, có nhiều tôm cá và các loại hải sản khác cũng như tiềm năng về khí đốt dưới lòng biển. Ngày 25-12-2000, Chủ Tịch Nhà Nước Trần Đức Lương sang Trung Quốc ký hiệp ước lịch sử chấp nhận hải phận theo đường vẽ của Trung Quốc. Hiệp ước cũng phân định sự hợp tác đánh cá và sử dụng tài nguyên năng lực nguyên tử giữa hai nước. Lại một lần nữa, quyền lợi và sự sống còn của chế độ được Hà Nội đặt lên trên chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc.
- Nhượng bộ tại quần đảo Trường Sa
Việc nhượng bộ tại quần đảo Trường Sa hiện nay là vấn đề gay go nhất cho chế độ CSVN. Tất cả tài liệu của VNCH đều xác định chủ quyền toàn vẹn trên lãnh thổ ngoài khơi này. Hiện nay, Hà Nội không những đương đầu với Trung Quốc mà còn với nhiều quốc gia khác như Đài Loan, Phi Luật Tân, Mã Lai là các nước đã chiếm đóng một phần của quần đảo. Một điều vô cùng nghịch lý, là Trung Quốc không chịu thương thuyết đa phương (multilateral discussion) mà chỉ chịu thương thảo song phương (bilateral) với các quốc gia Phi Luật Tân và Mã Lai Á, nhưng lại không chịu thương thuyết với Việt Nam về Trường Sa. Điều nghịch lý này tương tự như những tên cướp bàn luận để chia chác những gì cướp được, còn người bị cướp thì không được dự vào. Nguồn lợi dầu hỏa và khí đốt lớn lao trong vùng không cho phép Hà Nội nhượng bộ các nước một cách dễ dàng. Vì nếu chấp nhận tình trạng chiếm đóng của các nước, thì Hà Nội sẽ bị mất vĩnh viễn một nguồn lợi lớn. Mặc dù hiện nay Hà Nội thừa hưởng di sản của VNCH để lại, chiếm đóng nhiều đảo và diện tích rộng lớn hơn tất cả các nước cộng lại, nhưng trên 50% vùng dầu hỏa và khí đốt lại nằm trong hải phận EEZ của Mã Lai Á. Mặt khác, đối với Trung Quốc, Hà Nội lâm vào tình trạng "há miOEng mắc quai", vì bị kẹt với văn thư của Phạm Văn Đồng chấp nhận lãnh hải rộng lớn của "Đại Trung Quốc." từ năm 1958.
Do đó, hiện nay Hà Nội có vẻ "chịu phép" với Trung Quốc, không dám hăng hái tranh đấu bảo vệ chủ quyền trên quần đảo Trường Sa.
Theo tờ LatelineNews ngày 15-2-2001, dưới tựa đề "Vietnam Distances Itself from Spratly Islands Report," Hà Nội đã "né tránh trách nhiệm" khi tờ Sài Gòn Giải Phóng, một đại nhật báo của đảng tại miền Nam tương tự như tờ Nhân Dân ở miền bắc, đăng một bài báo tiết lộ rằng "các viên chức cao cấp của đảng và quân đội đã họp kín để thảo luận về việc thành lập đơn vị quản trị hành chính riêng cho quần đảo Trường Sa và thiết kế việc bảo vệ chủ quyền Việt Nam."
Bài báo của tờ SGGP đã gây nên một "phản ứng bén nhạy" từ phía Trung Quốc. Phát ngôn nhân bộ ngoại giao Trung Quốc Zhu Bangzao (Dư Bằng Giao) đã lên tiếng: "Trung Quốc có chủ quyền toàn vẹn bất khả tranh chấp đối với quần đảo Nansha và toàn vùng lãnh hải liên hệ. Bất cứ quốc gia nào có hoạt động gì trên quần đảo này đều xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc, đều bất hợp pháp và vô giá trị."
Để đáp lại lời tuyên bố của Dư Bằng Giao, phát ngôn nhân bộ Ngoại Giao CSVN Phan Thúy Thanh giải thích một cách ngượng ngập: "Đó (báo SGGP) chỉ là một tờ báo thành phố (only a city newspaper)." Bà Phan Thúy Thanh nhiều lần từ chối trả lời trực tiếp các câu hỏi của nhiều ký giả về việc nhà nước CHXHCNVN minh định thế nào về chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa, mà chỉ giải thích rằng "theo sử liệu của Việt Nam Cộng Hoà thời trước, quần đảo này được xem là một phần của tỉnh Khánh Hòa."
Xem như thế, người Việt Nam không còn hy vọng gì ở đảng CSVN trong việc tranh đấu với Trung Quốc để đòi lại chủ quyền về lãnh thổ và lãnh hải mà Trung Quốc đã lấn chiếm bằng một kế hoạch dài hạn và có hệ thống sách lược từ nửa thế kỷ qua. Sự lấn chiếm này sẽ tiếp diễn liên tục theo chiến lược tiệm tiến như vết dầu loang, cho đến khi Trung Quốc hoàn thành tham vọng "Đại Trung Quốc" của họ. Để tự cứu, dân tộc Việt Nam cần ý thức được mối hiểm họa ngoại xâm này hầu có một sách lược đấu tranh quyết liệt và hữu hiệu đối với Trung Quốc. Cuộc đấu tranh này phải được tiến hành song song với cuộc đấu tranh giải trừ mối hiểm họa nội thù của dân tộc là chế độ CSVN.

II.- Hiểm họa trường kỳ của Trung Quốc đối với Việt Nam
1- Hiểm họa về an ninh: Thế phong tỏa của Trung Cộng
Trong cuốn ‘‘Địa Lý Biển Đông," tác giả Vũ Hữu San có trình bày một phóng đồ (trang 65) với một viễn tượng vô cùng bi quan một khi Trung Quốc muốn khống chế Việt Nam bằng vũ lực. Trên mặt biển hiện nay Trung Quốc đã có các căn cứ Hải Quân vùng đông nam Trung Quốc sau đây (từ bắc xuống nam):
- Quangzou (gần Hồng Kông)
- Zhanjiang (bán đảo bắc Hải Nam)
- Beihai (Trong vịnh Bắc Việt, gần biên giới Hoa Việt)
- Haikou (phía đông bắc đảo Hải Nam)
- Yulin (phía nam đảo Hải Nam)
- Hoàng Sa
- Riêng trên quần đảo Trường Sa, Trung Quốc chưa xây được căn cứ Hải Quân, vì đang tranh chấp với các nước. Dù vậy, Trung Quốc đã xây xong một cầu cho chiến hạm cập bến tại bãi Fiery Cross. Tuy nhiên, bản phúc trình của ông Michael Studeman, Hải Quân Thiếu Tá Tình Báo Hoa Kỳ (Naval Intelligence Lieutenant Commander), dưới tiêu đề ‘‘Calculating China’s Advances in the South China Sea Identifying the Triggers of Expansionism" có nhắc đến chủ trương của Hải Quân thuộc ‘‘Quân Đội Giải Phóng của Nhân Dân" (People’s Liberation Army Navy - PLAN) như sau:
"In order to make sure that the descendants of the Chinese nation can survive, develop, prosper and flourish in the world in the future, we should vigorously develop and use the oceans. To protect and defend the rights and interests of the reefs and islands within Chinese waters is a sacred mission ....
The [Spratly] Islands not only occupy an important strategic position, but every reef and island is connected to a large area of territorial water and an exclusive economic zone that is priceless."
Để thực hiện được sách lược trên, PLAN xác quyết:
"The only way to give our maritime defense a solid basis is to intensify our naval buildup and upgrade our naval buildup defense capability. We cannot resolve problems with political or diplomatic measures until we have great naval strength, and only then will it be possible to overcome our enemies without engaging in battles. If intimidation fails to achieve any effects, we would then be able to actually deal an effective blow."
Bằng vào lịch sử hành động của Trung Quốc 50 năm qua, luôn luôn dùng sức mạnh vũ lực để đạt mục đích tối hậu, viễn ảnh Trung Quốc xây cất quân cảng và căn cứ Hải Quân tại Trường Sa chỉ là vấn đề thời gian. Như vậy, Việt Nam sẽ chịu một áp lực khổng lồ của hải, lục, và không quân Trung Quốc trong tương lai đến từ mọi phía (hình 22). 
Trong một bản tin của Kanwa News ngày April 14, 1999, bình luận gia Andrei Pinkov đã báo động về việc Trung Quốc đã đẩy nhanh chương trình xây cất hệ thống hỏa tiển "ground-to-air" bắn từ đất liền lên không trong kế hoạch phòng vệ không gian. Trung Quốc đã điều nghiên hệ thống chỉ huy C31, bằng vệ tinh không gian (hình 23), đã bắt đầu thiết trí tại một vài căn cứ quân sự và sẽ được hoàn tất cho toàn quốc trong vài năm tới.

       

    Đầu năm 2000, cơ quan thông tấn AP có đề cập đến dự án xây xa lộ Trường Sơn trên đường mòn Hồ Chí Minh. Tin tức về dự án này làm xôn xao dư luận cộng đồng Việt Nam cũng như quốc tế. Nhiều người lo ngại về ảnh hưởng môi sinh của dự án, như phá rừng, đất lở, lụt lội miền đồng bằng, nhưng không mấy ai để ý đến khía cạnh quân sự. Hiển nhiên, dự án này là kết quả của việc Hà Nội đã ký thuận bản hiệp ước biên giới vào cuối năm 1999. Điều đáng chú ý là con đường mòn HCM trong thời chiến chỉ bắt đầu từ Nghệ An, mạn bắc của rặng Trường Sơn, nhưng dự án xây xa lộ mới lại bắt đầu từ tỉnh Lai Châu, tỉnh cực tây bắc của Việt Nam tiếp giáp với Lào và Trung Quốc.
Dự án xa lộ chạy qua miệt phía tây rặng Hoàng Liên Sơn, qua phía đông lòng chảo Điện Biên Phủ, xuống Sơn La, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tỉnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột, Tây Ninh, Gia Nghĩa, An Lộc, và nhập vào Quốc Lộ 1 tại Tây Ninh.
Quốc lộ 1 chạy từ Bắc dọc duyên hải vào Sài Gòn rồi đổi hướng chạy về phía Tây qua Nam Vang, Cambodia. Như vậy việc chuyên chở từ biên giới cực bắc vào nam sẽ ngắn hơn và thuận tiện hơn quốc lộ 1. Từ đó, người ta có thể suy ra viễn ảnh bán đảo Đông Dương có thể bị Trung Quốc thôn tính một cách dễ dàng.
2.- Hiểm họa về kinh tế: Mất những tài nguyên quan trọng
Từ khi lập quốc đến nay, sinh mệnh dân tộc Việt Nam luôn luôn gắn liền với ngư nghiệp và hải sản. Với sự lấn chiếm của Trung Quốc trên vịnh Bắc Việt, Hoàng Sa, và Tây Sa, nguồn lợi hải sản, ngư sản bị thu hẹp lại khá nhiều. Vì đáy biển quanh các quần đảo khá cạn và nhiều san hô, nhiều loài cá sinh sản tại các vùng này. Từ nay, nguồn tài nguyên thiên nhiên này đã bị người cướp đoạt và sẽ ảnh hưởng đến sự trù phú của bờ biển Việt Nam.
Hiện nay, nguồn dầu hỏa và khí đốt là năng lượng thiết yếu cho việc phát triển kỹ nghệ và sự phù thịnh kinh tế. Hoàng Sa cũng như Trường Sa là những nơi có túi dầu nằm phía dưới (hình 24). Mất hai vùng này, Việt Nam chỉ còn túi dầu nằm ngoài khơi đảo Côn Sơn mà thôi. Vùng này nằm trong lãnh hải EEZ của Việt Nam. Thế nhưng cũng đã có lần vào năm 1996, một chiếc tàu với dụng cụ rà dầu (oil survey) của Trung Quốc đã bị phát hiện.
3.- Hiểm họa về giao thông: Thủy lộ gián đoạn
Bản đồ về thủy lộ của tàu viễn duyên (hình 25) trích từ tài liệu của U.S. Institute for Naval Strategic Studies cho thấy Biển Đông thủy lộ hàng hải chính cho tàu bè từ các nước nằm trong vùng đông bắc Á Châu chạy xuống vùng Tây Nam.
Đây không chỉ là một hiểm họa riêng cho Việt Nam, mà còn cho cả thế giới, nếu Trung Quốc
thành công trong việc phong tỏa toàn vùng biển này như là một "nội hải" (territorial waters) của họ.
Trong một bài báo mới đây của tổ chức U.S. Heritage Foundations, tựa đề ‘"How the Bush Administration Should Handle China and South China Sea Maritime Territorial Disputes," Sep. 05, 2001, tác giả Dana R. Dillon đã báo động về sự phong tỏa của Trung Quốc trên vùng biển Đông Hải. Tác giả trích dẫn bản tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền toàn vùng Biển Đông, trong đó có "Điều 64" như sau:
"The People’s Republic of China reaffirms that the provisions of the United Nations Convention on the Law of the Sea concerning innocent passage through the territorial sea shall not prejudice the right of a coastal state to request, in accordance with its laws and regulations, a foreign state to obtain advance approval from or give prior notification to the coastal state for the passage of its warships through the territorial sea of the coastal state."
Rõ ràng đó là một sự thách thức công khai đối với các quốc gia trên thế giới nói chung và với Hạm Đội Thái Bình Dương của Mỹ nói riêng trong việc hải hành qua Biển Đông.
Hành động kiểm soát và bắt giữ các tàu chở hàng của Việt Nam từ năm 1992 và sự kiện Trung Quốc xây cất trạm hải quân (navy station) năm 1995 tại vùng đá ngầm Mischief Reef nằm trong hải phận EEZ của Phi Luật Tân, đã biểu lộ quyết tâm của Trung Quốc trong việc kiểm soát tàu bè qua lại trong Biển Đông. Về mặt ngoại giao, Trung Quốc tham dự các cuộc thương thảo và ký vào các giao ước ngăn cấm việc sử dụng vũ lực. Nhưng hành động của họ thì ngược lại và luôn luôn vô hiệu hóa một cách có hệ thống (systematically nullify) bản Luật Biển Liên Hiệp Quốc UNCLOS.

    Cũng theo nhận định của bình luận gia Dillon, cho đến nay, các chính phủ Mỹ từ Clinton cho đến Bush vẫn giữ thái độ thụ động ngay cả khi Trung Quốc lấn chiếm một vùng đá ngầm của Phi Luật Tân, một đồng minh của Mỹ. Hoa Thịnh Đốn vẫn tiếp tục giữ thái độ "trung hòa" (neutrality), từ chối lên án hay phản đối hành động lấn chiếm của Trung Quốc, và chỉ kêu gọi các bên nên tự hạn chế trong việc dùng vũ lực để giải quyết các cuộc tranh chấp. Một trong những suy diễn để giải thích sự thụ động của chính phủ Mỹ là: Hiện nay Washington phải theo chính sách hòa hoãn với Trung Cộng để phân chia nguồn lợi kinh tế từ việc khai thác dầu hỏa, và cũng để nhờ Trung Quốc giúp đỡ trong cuộc chiến chống khủng bố tại A Phú Hãn.
Trong khi đệ nhất cường quốc thế giới ngại phản kháng Trung Quốc như thế, thì các nước ASEAN lại không dám "bênh" nhau hoặc đoàn kết để chống lại Trung Quốc. Nhìn rõ tình trạng hiện nay, mới thấy sự suy luận của một số người Việt Nam cho rằng Hoa Kỳ sẽ không bao giờ để yên cho Trung Quốc thực hiện được mộng bá quyền của họ trên Biển Đông, để rồi kết luận rằng dân tộc Việt Nam khỏi cần làm gì cả đối với Trung Quốc, quả thật là một sự lạc quan đầy tai hại.
Đối với Việt Nam, sự phong tỏa ngoài khơi của Trung Quốc về đường biển sẽ làm cho các hải cảng quan trọng như Hải Phòng, Đà Nẵng, Cam Ranh và Vũng Tàu mất hẳn tầm mức hữu hiệu, khi mà các thương thuyền ngoại quốc muốn đi từ ngoài khơi biển Đông vào các hải cảng này lại phải "xin phép" Trung Quốc.
4.- Hiểm họa về môi sinh: Rủi ro về dầu loang và khí độc
Các cuộc khai thác dầu cặn và khí đốt trong vùng Biển Đông sẽ phóng ra trên mặt biển nhiều khối lượng dầu thô bị tràn ra cũng như trong không gian các loại khí đốt chưa dùng. Nếu nhà máy lọc dầu và lọc gas được xây cất trên Hoàng Sa và Trường Sa, các chất đổ tràn hay thoát ra từ nhà máy sẽ nhiều hơn. Quanh năm, gió biển thổi vào Việt Nam chỉ có hai chiều: hoặc từ hướng đông bắc trong mùa đông, hoặc từ đông nam trong mùa hè. Gió mùa nào cũng sẽ mang dầu tràn trên biển hoặc khí đốt lan trong không gian vào nội địa Việt Nam. Dầu nổi trên biển sẽ làm ô nhiểm nước biển, sẽ che ánh nắng mặt trời làm cho đáy biển tối tăm và mất đi điều kiện sinh sản. Khí trên không sẽ lẫn vào hơi nước, gặp rặng Trường Sơn, đông lạnh và thành mưa độc trên sinh vật thực vật. Nếu việc khai thác do chính người Việt Nam quản trị, thì vì phúc lợi của dân tộc, chúng ta sẽ thận trong trong mọi việc phế thải chất độc. Ngược lại, người Trung Quốc sẽ không bao giờ quan tâm đến sự an nguy của người Việt Nam.

III.- Trách nhiệm của các chính phủ cầm quyền tại Việt Nam trong 50 năm qua
Qua những dữ kiện đã được trình bày và phân tích ở các phần trên, chúng ta thấy là Trung Quốc đã bắt đầu thực thi kế hoạch lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam trong hoàn cảnh Việt Nam bị các thế lực quốc tế chia đôi thành hai miền Nam và Bắc. Đến khi miền Bắc nhờ viện trợ vũ khí của Trung Quốc mà chiếm được miền Nam, thì cuộc bành trướng của Trung Quốc càng gia tăng. Như vậy, trên phương diện lãnh thổ, tuy đảng CSVN tạo được hào quang bề mặt là "thống nhất đất nước về một mối," song bề trái là ‘"đảng đã hy sinh sự toàn vẹn của đất nước vì mục đích thống nhất đất nước."
1.- Đảng CSVN hy sinh sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam để đổi lấy quyền lợi cho đảng
    So sánh chứng từ của hai văn kiện đã trích dẫn ở phần Hai, mục I:
* Một bên là Bạch Thư (White Paper) của bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam) tuyên cáo rằng "hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một phần bất khả phân của nước VNCH. Chính phủ VNCH sẽ không nhượng bộ trước vũ lực và chịu mất chủ quyền trên các quần đảo này;"
* Một bên là Văn Thư của Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Miền Bắc) "ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc." Văn thư này được giữ bí mật tuyệt đối trước nhân dân cả hai miền, mãi sau này mới bị Trung Quốc đưa ra ánh sáng.
Người ta thấy rõ:
            * Trong khi Miền Nam bị khốn đốn vì phải dồn nỗ lực tự vệ chống lại sự xâm lấn của Miền Bắc, thì chính phủ Sài Gòn vẫn cương quyết hy sinh bảo vệ lãnh thổ. Sau khi Hoàng Sa thất thủ, dù bị Đồng Minh Mỹ bỏ rơi, Miền Nam vẫn bày tỏ quyết tâm tranh đấu quyết liệt và công bố bạch thư đưa vấn đề Trung Quốc xâm phạm chủ quyền ra trước công luận quốc tế.
* Trong khi Miền Bắc tiến hành cuộc nội chiến xâm chiếm Miền Nam với chiêu bài "Chống Mỹ Cứu Nước," thì hành động của chính phủ Hà Nội lại chứng tỏ "Vì Lợi Bán Nước," đặt quyền lợi của đảng lên trên quyền lợi của quốc gia và dân tộc.
Tuy nhiên, có người cho rằng việc kết án đảng CSVN "bán nước" là bất công, vì "bộ đội của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) đã hy sinh xương máu để bảo vệ từng tấc đất trong hai trận chiến năm 1979 tại biên giới Hoa Việt và năm 1988 tại Trường Sa." Đây là một lý luận xuất phát từ sự thiếu hiểu biết về căn nguyên của từng biến cố. Sự thật, những nguyên nhân, diễn biến cuộc chiến cho thấy CSVN quyết chiến không phải vì để bảo vệ đất nước:
* Trên phương diện công pháp quốc tế, hai quốc gia Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được thành lập bởi Hiệp Định Genève, lấy Vĩ Tuyến (Latitude) 17 làm đường ranh giới. Quần đảo Hoàng Sa nằm phía nam Vĩ Tuyến 17 và thuộc chủ quyền của VNCH. Thế nhưng VNDCCH đã gởi văn thư hội ý cho Trung Cộng tiến chiếm Hoàng Sa. Như vậy, đảng CSVN đã toa rập với Trung Quốc, hy sinh sự toàn vẹn lãnh thổ để đổi lấy sức mạnh quân sự tiến hành cuộc xâm chiếm miền Nam.
* Sau khi chiếm được Miền Nam, đảng CSVN cho quân đến tiếp thu một số đảo trong quần đảo Trường Sa do quân đội của VNCH trấn giữ trước. Đó là điều dĩ nhiên, vì nguồn lợi dầu hỏa quá to lớn, không thể bỏ được. Trung Quốc liền đòi hỏi đảng CSVN thực thi việc di nhượng lãnh thổ và lãnh hải mà trước kia hai bên đã giao kết trong bí mật.
* Đảng CSVN vì không muốn bị toàn dân Việt Nam nguyền rủa, nên toan tính bội tín bằng cách dựa vào hiệp ước hỗ tương ký kết với Liên Sô. Vì vậy mới xảy ra vụ Trung Quốc lấn chiếm biên giới Việt Nam năm 1979 và vụ Trung Quốc đánh chìm ba chiến hạm của Hà Nội năm 1988.
2.- Đảng CSVN quá yếu kém trong việc thương thuyết và luôn luôn che đậy sự thật về kết quả
Tiếp theo sụp đổ của Liên Sô vào cuối thập niên 1980’s, đảng CSVN đã hết phương bám víu để chống lại "the Chinese aggression," nên đổi thái độ, bắt đầu ngoan ngoãn với Trung Quốc. Vì vậy mà có hiện tượng là đột nhiên Bắc Kinh và Hà Nội trở thành thân thiện, bắt đầu thương thuyết với nhau về vấn đề tranh chấp biên giới và hải phận từ đầu thập niên 1990’s đến nay.
Nói là thương thuyết, nhưng thật ra là đảng CSVN đã phải thi hành các điều đã bí mật cam kết với Trung Quốc trong thời chiến để đổi lấy viện trợ quân sự.
Hậu quả như chúng ta đã thấy, là các hiệp ước 1999 và 2000, Hà Nội đã nhượng cho Bắc Kinh vừa lãnh thổ lẫn lãnh hải của Việt Nam.
Tất cả các yêu sách của Bắc Kinh đưa ra trước khi ngồi vào bàn hội nghị, Hà Nội đều phải thỏa thuận lúc ký hiệp ước. Từ vụ Bắc Kinh đòi hỏi chủ quyền ải Nam Quan và một số vùng nằm phía bắc các sông Kỳ Cùng và sông Bằng, cho đến việc xé hiệp ước Pháp Thanh 1887 để ấn định ranh giới lãnh hải mới trong vịnh Bắc Việt để nhượng cả toàn vùng mỏ khí đốt dưới đáy biển cho Trung Quốc, Hà Nội đều triệt để tuân theo. Tất cả các thỏa thuận với Bắc Kinh, Hà Nội giữ bí mật, không bao giờ hỏi ý dân, vì biết rằng sẽ bị dân phản đối.
Các hiệp ước nhượng bộ này chắc chắn vẫn còn tiếp diễn, cho đến khi Việt Nam hoàn toàn bị Trung Quốc khống chế về mọi phương diện, hoặc cho đến khi đảng CSVN không còn quyền hành cai trị đất nước Việt Nam. Trong tương lai gần, Hà Nội sẽ phải nhượng trọn vẹn quần đảo Trường Sa và có thể cả hải phận của đảo Côn Sơn, nơi có mỏ dầu mà Hà Nội đang khai thác, kế thừa khế ước của VNCH. Vì mọi huyết mạch của đảng CSVN đã bị tên phù thủy Trung Quốc nắm lấy, cho sống thì sống, bắt chết cũng không dám cưỡng lại.
Tóm lại trong vụ đánh mất lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam trong 50 năm qua, đảng CSVN là thành phần duy nhất chịu trách nhiệm hoàn toàn trước nhân dân và lịch sử. Bề trái của các hiệp định "hữu nghị hỗ tương giữa hai quốc gia Trung Quốc và Việt Nam" đã bị phơi bày:  Đó là phản ảnh của tham vọng bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc, và quyền lợi tối thượng của đảng CSVN được đảng đặt trên quyền lợi quốc gia.

Phần ba: đề nghị
    Làm thế nào để đòi lại các phần lãnh hải và lãnh thổ của tổ tiên đã bị mất? Đó là một câu hỏi cấp thiết đặt ra cho toàn dân Việt Nam trong thời đại này để giải quyết vấn nạn của dân tộc. Vì đây là một bài biên khảo về vấn đề Trung Quốc xâm phạm biên giới của Việt Nam, nên các
phần thu thập dữ kiện và phân tích vấn đề trình bày ở trên được xem là các phần chính yếu. Tuy nhiên, bài viết sẽ được đầy đủ hơn nếu có phần gợi ý về một số giải pháp khả thi cho vấn nạn của đất nước. Ước mong những gợi ý thô thiển này sẽ được các bậc thức giả cũng như các nhà lãnh đạo các tổ chức chính trị lưu tâm tới để triển khai và ứng dụng phần nào chăng.
I.- Vô hiệu hóa các hiệp định đã được ký kết
1.- Những khó khăn về mặt pháp lý
    Trong tình huống hiện nay, những ai quan tâm đến vấn đề toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam cũng đều thấy rõ một điều: Các hiệp ước mà nhà nước CHXHCNVN đã chính thức ký kết với Bắc Kinh sẽ khiến cho việc đòi lại chủ quyền trên các vùng đã bị nhượng mất vô cùng khó khăn trên mặt pháp lý quốc tế. Ngày 9-6-2000, "Hiệp ứớc về Biên Giới Trên Đất Liền" đã được quốc hội cũ của nước CHXHCNVN thông qua (ratify). Hiện nay hai bên đang thiết lập các bia ghi dấu (monuments)  phân định ranh giới. Thế nhưng tin tức này vẫn còn bị bưng bít ở trong nước, thậm chí đảng viên thâm niên như ông Đỗ Việt Sơn vẫn chưa biết và vẫn kêu gọi quốc hội mới đừng thông qua.
Cho đến nay, chưa có tin tức về Hiệp Ước Phân Định Vịnh Bắc Bộ được quốc hội thông qua hay chưa. Nhưng bằng vào các sự "giao hảo" giữa hai chính phủ và sự "thăm viếng" qua lại liên miên của các giới chức thẩm quyền cao cấp nhất của hai bên trong thời gian tám tháng vừa qua, có lẽ quốc hội hai bên sẽ thông qua hiệp ước vịnh Bắc Việt trong khóa họp cuối năm 2001 hay đầu năm 2002.
Sự trì hoãn của quốc hội mới CHXHCNVN về việc thông qua Hiệp Ước Phân Định Vịnh Bắc Bộ rất có thể là hậu quả của vụ đại hội 9 của đảng đã bất ngờ thay thế Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu, người được Giang Trạch Dân, chủ tịch đảng cộng sản Trung Quốc, công khai ủng hộ trong khi đại hội 9 của đảng CSVN nhóm họp.
Cũng có thể sự trì hoãn này đã xảy ra là do sự lên tiếng phản đối của một số đảng viên CSVN và các trí thức trẻ trong nước. Gần đây, đảng viên Đỗ Việt Sơn, 78 tuổi đời, 54 tuổi đảng, đã viết thư phổ biến trên các hệ thống mạng lưới truyền tin, đề nghị tân chủ tịch quốc hội CHXHCNVN Nguyễn Văn An "không cho quốc hội thông qua hiệp đính biên giới Việt - Trung, cả trên đất liền và trên biển, đảm bảo quyền lợi cho Tổ quốc và danh dự dân tộc." Tiếp theo, Lê Chí Quang, 30 tuổi, tốt nghiệp cử nhân Luật tại Đại Học Hà Nội cũng viết bài đăng trên mạng lưới điện toán báo động về "hiểm hoạ Bắc TriềuỂ và đặt câu hỏi "liệu tân tổng bí thư Nông Đức Mạnh có đứng vững được trước làn sóng xâm lăng từ Phương Bắc không?" Lê Chí Quang có vẻ là một thanh niên nhiệt huyết và can đảm. Anh đã nêu một câu nói của cổ nhân Hàn Phi Tử để kết luận cho bài viết của anh "Nước mất, mà không biết là bất tri; biết mà không lo liệu là bất trung; lo liệu mà không liều chết là bất dũng."
2.- Nhiệm vụ của các thành phần yêu nước tại quốc nội
Nếu các phỏng đoán trên (về ảnh hưởng của các phản kháng đã khiến quốc hội trì hoãn sự thông qua hiệp định vịnh Bắc Việt) là đúng, thì các thành phần tiến bộ ở trong nước phải ý thức nhiệm vụ quan trọng của ho. Họ nên hiểu rõ rằng đảng CSVN là kẻ sang nhượng đất nước cho ngoại quốc; và rằng họ không thể hy vọng gì ở sự phục thiện của bộ Chính Trị đảng CSVN. Một trong những định hướng mà họ nên nghĩ tới là phải vô hiệu hóa các hiệp định mà đảng đã ký kết. Muốn vô hiệu hóa các hiệp định đó, họ phải loại bỏ tư cách chính danh của đảng CSVN trong vấn đề sang nhượng lãnh thổ của Việt Nam cho ngoại quốc. Từ định hướng này, họ có thể vận động, hướng dẫn dân chúng đồng loạt phủ nhận tính cách đại diện nhân dân của đảng.
Loại bỏ tính cách đại diện nhân dân của đảng CSVN là giải pháp lý tưởng nhất. Nhưng giải
pháp này đòi hỏi những người can đảm như Lê Chí Quang, Đỗ Việt Sơn phải thể hiện lời nói hiên ngang của mình bằng hành động. Nếu không làm được như thế thì ít nhất họ cũng có thể hướng dẫn quần chúng làm một số hành động cụ thể sau đây:
- Đồng loạt đặt vấn đề với quốc hội và yêu cầu quốc hội rút lại sự thông qua hiệp ước nhượng đất năm 1999, cũng như từ chối thông qua hiệp ước nhượng biển năm 2000.
- Đồng loạt ký tên vào các thỉnh nguyện thư do các mạng lưới hải ngoại đưa lên để tranh đấu với Trung Quốc trên bình diện quốc tế.

II..- Vận động thế giới ngăn chận Trung Quốc lấn chiếm các lân bang
    1.- Vai trò của các tổ chức Phi Chính Phủ (Non-Government Organizations - NGO) của người Việt hải ngoại
- Đặt vấn đề chủ quyền của dân tộc Việt Nam tại LHQ.
- Vận động chính giới tại các quốc gia tôn trọng công lý và hòa bình, đặc biệt là Hoa Kỳ và các quốc gia Âu Châu lên tiếng về bản văn gọi là "Luật Biển Của Trung Hoa Cộng Hòa Quốc," đồng thời áp lực Trung Quốc tôn trọng Luật Biển Liên Hiệp Quốc.
- Vận động các quốc gia ASEAN, cùng với các quốc gia trong vùng Thái Bình Dương ra tuyên cáo chung không chấp nhận Trung Quốc xem Biển Đông là nội hải của họ.
- Vận động toà án quốc tế cứu xét vụ án Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa và xâm lấn Trường Sa của Việt Nam.
- Phát động phong trào ký thỉnh nguyện thư yêu cầu LHQ và chính phủ Mỹ can thiệp vào tình trạng lấn chiếm của Trung Quốc. Mặc dù Luật Biển Liên Hiệp Quốc bị xem thường, Liên Hiệp Quốc chỉ cứu xét khi có sự khiếu nại mang tính cách chính thống, hoặc từ một chính phủ quốc gia, hoặc từ một tổ chức phi chính phủ (NGO)
- Thành lập một mạng lưới diễn đàn truyền thông quốc tế để kết hợp các nỗ lực đấu tranh chống lại sự tuyên truyền trên mạng lưới quốc tế của Trung Quốc và để hướng dẫn người dân trong và ngoài nước ký vào thỉnh nguyện thư bằng internet.
2.- Vai trò của các hội chuyên gia và kỹ thuật trong và ngoài nước
          - Thu thập tài liệu và nhật tu các tin tức mới liên ệE đến các cuộc tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải tại vùng Đông Dương.
- Chuyển ngữ các tài liệu ra nhiều thứ tiếng.
- Tổ chức các cuộc hội thảo với dân tộc láng giềng có quyền lợi tại Biển Đông.
- Hợp tác, cung cấp trao đổi tài liệu quốc nội và quốc tế qua phương tiện mạng lưới điện toán.

III.- Thành lập một liên minh dân tộc để bảo vệ bờ cõi Việt Nam trong lâu dài
1.- Quan niệm chỉ đạo cho Liên Minh Dân Tộc Bảo Vệ Bờ Cõi Việt Nam
- Xác định mục đích: Liên Minh Dân Tộc Bảo ệE Bờ Cõi Việt Nam nhằm mục đích đòi Trung Quốc trả lại các phần lãnh thổ và lãnh hải đã bị đảng CSVN di nhượng từ 50 năm qua.
- Liên Minh Dân Tộc Bảo Vệ Bờ Cõi Việt Nam vận dụng mọi thành phần dân tộc trong và ngoài nước trong thế hỗ tương, ngoại trừ thành phần lãnh đạo đảng CSVN vì họ đã chứng
tỏ là không quan tâm đến quyền lợi của đất nước bằng quyền lợi của đảng.
2.- Vị trí đấu tranh của Liên Minh Dân Tộc Bảo Vệ Bờ Cõi Việt Nam
- Liên Minh Dân Tộc Bảo Vệ Bờ Cõi Việt Nam được tiến hành song song với phong trào đấu tranh hiện nay cho nhân quyền, dân chủ, và phong trào chống tham nhũng tại Việt Nam.
3.- Trách nhiệm và đặc tính của Liên Minh Dân Tộc Bảo Vệ Bờ Cõi Việt Nam
- Phối hợp hoạt động của mọi tổ chức và cá nhân quan tâm đến sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.
- Hoạt động công khai trong và ngoài nước.
- Phổ biến rộng rãi tình trạng biên giới Việt Nam hiện nay đến báo chí và dư luận trong nước.

Kết luận
"Nếu người Việt Nam không lo, ai lo? Nếu không lo bây giờ, bao giờ?"
Trước hiểm họa bị diệt vong hay đồng hóa tương tự như Tây Tạng, số phận của dân tộc hoàn toàn tùy thuộc vào ý thức trách nhiệm của mọi thành phần quan tâm đến sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, trong cũng như ngoài nước. Dĩ nhiên, mọi người Việt Nam đều ý thức rằng việc bảo vệ bờ cõi đất nước là một bổn phận truyền thống của tiền nhân để lại cho hậu duệ. Vì là một bổn phận truyền thống, nó phải được đặt cao hơn mọi ý thức chính trị và quyền lợi của mọi đảng phái.
Ở trong nước, một số đảng viên CSVN cũng như những trí thức trẻ đã thấy rõ lãnh đạo đảng CSVN chỉ vì quyền lợi của đảng và của cá nhân mà làm tiêu hao tài sản của tổ quốc. Với những phương tiện truyền thông hạn hẹp, họ gióng lên những tiếng chuông cảnh tỉnh quốc dân. Tuy nhiên, để tránh bị buộc vào trọng tội "phản động, phản cách mạng" và hy vọng sẽ không bị trừng phạt, đàn áp bởi những kẻ đang có quyền thế, họ đã miễn cưỡng kèm theo lời ca ngợi công laon "chống Mỹ cứu nước" của đảng CSVN. Họ mong chờ gì ở người tập thể Việt hiện đang sống lưu vong tại hải ngoại, vốn là nạn nhân của công cuộc "chống Mỹ" ấy? Hình thức đấu tranh của họ lại mâu thuẫn với những gì họ đã biết rõ: Dù trong lòng đã bất tín nhiệm đảng CSVN, nhưng vì sợ bị đàn áp khốc liệt, họ vẫn phải tiếp tục công nhận tính cách chính danh và tư thế lãnh đạo của đảng.
Ở hải ngoại, một số cá nhân hay hội đoàn đã và đang báo động về hiểm họa lấn chiếm của Trung Cộng. Đa số các đoàn thể đấu tranh cách mạng đều nhận rõ "lãnh đạo đảng CSVN bán nước." Khởi đi từ nhận thức này cùng nhu cầu canh tân xứ sở, các nỗ lực đấu tranh giải trừ chế độ CSVN đang được đặt lên ưu tiên hàng đầu. Tuy vậy, trên thực tế, chính vì sự khác biệt trong đường lối và ưu tiên đấu tranh, từ đó nảy sinh sự hoài nghi, bất tín nhiệm lẫn nhau. Vì vậy, việc thi hành bổn phận bảo vệ bờ cõi trở thành đơn lẻ.
Trong bối cảnh thiếu vắng một phối hợp toàn diện cho dân tộc, người viết xin chấm dứt bài viết bằng một câu hỏi dài, hướng về quý vị thức giả nặng lòng với Tổ quốc, các nhà cách mạng chân chính, các chiến lược gia lỗi lạc, và các thanh niên nhiệt huyết hậu duệ của Quốc Tổ Hùng Vương:
- Có thể nào, một liên minh dân tộc được thành hình, có một sách lược vượt lên trên mọi khuynh hướng chính trị đương thời, kết hợp được các thế đấu tranh của mọi người Việt trong và ngoài nước, để cùng theo đuổi một mục tiêu chung là đòi lại sự vẹn toàn lãnh thổ và lãnh hải cho dân tộc Việt Nam đã bị mất vào tay Trung Quốc, hay không?

_____________________________

Tài Liệu Tham Khảo
* Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Bộ Giáo Dục Trung Tâm Học Liệu VNCH, 1971
* Vũ Nguyệt Minh, Nước Tôi Dân Tôi, Cơ Sở Đông Tiến, tháng 11, 1989
* BBC News, ‘‘Hope For Vietnam China Sea Dispute,’’ 26-9-2000
* Vũ Hữu San, Địa Lý Biển Đông với Hoàng Sa và Trường Sa, Hương Quê, 1995
* Jane’s Intelligence Review, "A Code of Conduct for the South China Sea," Oct 27, 2000
* Datacom Ad Network, "China, Vietnam Pledge To Resolve Border Dispute," Apr 5, 2000
* Heritage Public Relations, ‘"US Must Dispute Beijing’s Claims To The South China Sea?", Sep 07, 2001
* Vietnam-Related General News, ‘"Vietnam, China To Speed Tonkin Gulf Demarcation," May 12, 2000
* Cameron W. Barr, ‘Old Foes Vietnam and China Cautiously Rebuild Ties," The Christian Science Monitor, Oct 3, 1997
* Scott Snyder, The South China Sea Dispute: Prospects For Preventive Diplomacy, U.S Institute Of Peace Special Report, 1997
* John Pike, "Spratly Islands,Ể Federation Of American Scientists Military Analysis Network", Jan 30,2000
* White Paper on the Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa (Spratly) Islands, Republic of Vietnam, Ministry of Foreign Affairs, Saigon 1975, Paracel Forum
* Proclamation by the Government of the Republic of Vietnam dated February 14, 1974, Paracel Forum
* Dana R. Dillon, "How the Bush Administration Should Handle China and South China Sea Maritime Territorial Dispute" The Heritage Foundation, Sep 5, 2001
* Robert Storey & Daniel Robinson, Vietnam, Lonely Planet Book, 1995
* Bruce Elleman, "Sino-Soviet Relations and the February 1979 Sino-Vietnamese Conflict," Apr 20, 1996
* Michael Studeman, "Calculation China’s Advances in the South China Sea, Identifying the Triggers of Expansionism," US Navy NWC Review, 1998
* King C. Chen, China’s War With Vietnam, Standford, CA, Hoover Institution, 1987
* Felix K. Chang, "Beijing’s Reach In The South China Sea," ORBIS, Summer 1996
* Trần Đại Sỹ, ‘"Bí Ẩn Về Việc Đảng CSVN, Lãnh Đạo Nhà Nước Cắt Lãnh Thổ, Lãnh Hải Cho Trung Quốc," Nguyệt San Việt Nam Online, BC, Canada
* Marwyn S. Samuels, Contest For The South China Sea, Mathuen & Co, New York & London, 1982: 110-117
* CIA - The World Factbook - Paracel Islands
* Carlyle A. Thayer, "Chronology of Key Events," Pacific Forum CSIS, 1999 - 2001
* Paracel Forum The Discussion Proceeds For Peace, "Vietnam Distances Itself From Spratly Islands Report"
* Vietnamnavy.com/hoangsa.html: Hà Văn Ngạc, "Những diễn biến đưa tới trận chiến Hoàng Sa," 1998; Vũ Hữu San "Sau 24 Nam Nhớ Về Hải Chiến Hoàng Sa," 1998; Trần Đỗ Cẩm, ‘"Trận Hải Chiến Tại Quần Đảo Hoàng Sa;" Trần Đỗ Cẩm, "Tình Hình Chiếm Đóng Tại Quần Đảo Trường Sa," 2000
* BBC News Online, "China Ends Huge Mine Clearing Programme," Asia-Pacific, Aug. 12, 1999
* BBC News Online, "China Clears Thousands of Landmines on Vietnamese Border," Jan. 6, 1998
* Rod Paschall, "The Bloodshed In South-east Asia," The Quarterly Journal of Military History, Nov. 14, 1999
* Trade and Environment Database Project, "Spratly Islands Dispute (Spratly Case No. 325)," Apr 30, 1996
* U.S. International Institute for Strategic Studies (IISS - FAS), Jan 30, 2000
* Andrei Pinkov, "China’s Plans to Develop the National-Class C31 System," Kanwa News April 14, 1999
* Luke T. Chang, China’s Boundary Treaties and Frontiers Disputes, New York: Oceana Publications, 1982
Biên Thùy Việt Nam 25 12/09/01

INDEX