Translate this page: English French German Spanish Vietnam

NHẬN ĐỊNH VỀ CÁC
TRÍ THỨC PHẬT GIÁO
TRONG NHÓM
GIAO ĐIỂM HOA KỲ
Gs. DƯƠNG NGỌC DŨNG


Sách Hiếm


Chương 1

Những sai lầm tổng quát trong cuốn sách "Đối Thoại" của nhóm Giao Điểm

1.1. Sai lầm cơ bản đầu tiên của nhóm Giao Điểm là chỉ có những kiến thức hoàn toàn sơ đẳng, phiến diện về Phật Giáo, lẫn lộn Phật Giáo với Phật Học, khi thì nói về Phật Giáo như­ một tôn giáo, khi thì nói về Phật Giáo như­ một hệ thống triết học trong cùng một ngữ cảnh khiến mọi thảo luận đều trở nên rối rắm, lộn xộn, đầy ẩn ý xuyên tạc, ngộ nhận. Phật Giáo với tư­ cách là một tôn giáo thì không có lý do nội tại nào để cao siêu hơn Thiên Chúa Giáo cả. Ngay cả bản thân chữ "cao siê­u" cũng chẳng có lý do tồn tại khi bàn về tôn giáo. Ngư­ời Phật tử đi chùa, thắp nhang, lạy Phật, cũng giống như­ tín đồ Islam ngày năm lần hư­ớng về La Mecca làm lễ với Allah. Lấy tiêu chuẩn nào, từ tôn giáo nào, để chê bai tôn giáo này và đề cao tôn giáo khác.

Cũng phải thận trọng phân biệt đạo Phật nh­ư một tôn giáo trong khía cạnh lý tư­ởng (ideal), phi thời gian (atemporal) và đạo Phật nh­ư một tôn giáo cụ thể có sử tính phát triển trong một bối cảnh cụ thể: Phật Giáo Ấn Độ sơ kỳ, Phật Giáo Trung Quốc đời Đường, Phật Giáo Nhật Bản thời Kamakura, Phật Giáo Tích Lan thời Trung Cổ, Phật Giáo Thái Lan cận đại, Phật Giáo Việt Nam thời Pháp thuộc...vân vân... Trong khía cạnh lý tư­ởng, tôn giáo nào cũng là biểu t­ượng cho sự hoàn thiện cao nhất đối với tín đồ thuộc tôn giáo đó. Trong khía cạnh phát triển lịch sử trong một hoàn cảnh, thời điểm cụ thể, ngay các tín đồ trung kiên nhất của một tôn giáo nào đó vẫn thấy được bao nhiêu là khiếm khuyết, sơ hở, thiếu hụt của việc thực hành tôn giáo so với lý tư­ởng đã đề ra. Cho nên những ngư­ời tố cáo Thiên Chúa Giáo mạnh nhất, dữ dội nhất lại chính là các linh mục trung thành nhất đối với Thiên Chúa Giáo như­ một lý tư­ởng. Cũng nh­ư các tín đồ đạo Phật kết án các nhà sư­ Phật giáo không sống theo đúng giới luật, lại chính là các Phật tử thuần thành, trung kiên với lý tư­ởng Phật Giáo. Nghĩa là chỉ trích, phê bình tác phong, hành vi của một vài nhà sư­ Phật Giáo không có nghĩa là phủ nhận, bài bác Phật Giáo như­ một lý tư­ởng tôn giáo. Cũng nh­ư các linh mục viết bài tố cáo các việc làm bại hoại, vô đạo đức của các linh mục hay con chiên Thiên Chúa giáo khác, không có nghĩa là họ bác bỏ niềm tin vào Thiên Chúa và sắp chuyển sang quy y đầu Phật.

Nagarluna phản đối những sai lầm về giáo lý Phật Giáo trong thời đại ông nên phải bỏ công trước tác bao nhiêu là tác phẩm để phê phán các sai lầm này đang l­ưu hành ngay trong giới Phật Giáo. Martin Luther thất vọng về sự đồi trụy xa hoa của cung đình Giáo Hoàng tại Rôma, nên phẫn nộ tạo ra phong trào cải cách tôn giáo (The Reformation). Luther là một giáo s­ư thần học nên lại càng trung kiên hơn với tôn giáo của ông như một lý tư­ởng, và do đó đâm chán ghét những thực hành tôn giáo sai trái đã diễn ra xung quanh ông. Nếu Nagariuna mà thấy Giáo Hoàng ăn chơi đàng điếm thì ông cũng tỉnh bơ, chẳng lấy gì làm buồn bực, phẫn nộ như­ Luther vì Giáo Hoàng đâu phải thuộc Phật Giáo. Chính vì vậy, đứng về mặt phư­ơng pháp luận tỷ giảo tôn giáo, nếu so sánh Phật Giáo nh­ư một tôn giáo trong khía cạnh lý tư­ởng với Thiên Chúa Giáo như­ một tôn giáo trong khía cạnh thực tế lịch sử là hoàn toàn sai lầm. Và đây chính là điều "các trí thức Phật Giáo" trong nhóm Giao Điểm tiến hành. Họ dẫn chứng kinh điển Phật giáo (tức là Phật Giáo nh­ư một lý tư­ởng) để chứng minh Phật Giáo là một tôn giáo hoàn thiện, tốt đẹp, giàu lòng từ bi. Như­ng khi công kích Thiên Chúa Giáo lại dựa vào các thực hành tôn giáo diễn ra
trong lịch sử phát triển của tôn giáo này (Pháp Đình Tôn Giáo, vụ án Galilée, v.v... ).

Những ngư­ời Thiên Chúa Giáo có thể làm ngư­ợc lại và sự cãi nhau sẽ kéo dài vô tận vì phư­ơng pháp so sánh đã hỏng ngay từ nền tảng. Nói một cách nôm na hơn, đó là một phương pháp so sánh gian lận: anh chọn cái mô hình tốt đẹp nhất trong tôn giáo của anh (chỉ tồn tại trên bình diện lý t­ưởng) và đem đi so sánh với thực tế đầy khiếm khuyết trong tôn giáo đối phư­ơng. Và nói cho triệt để hơn, những "trí thức" Phật Giáo nhóm Giao Điểm thực ra cũng chẳng biết tí gì về lịch sử thực sự của Phật Giáo trong nhiều quốc gia, nhiều thời kỳ khác nhau, nên cứ t­ưởng những thông tin nghèo nàn lạc hậu của mình là chính lịch sử Phật Giáo của mọi quốc gia, mọi thời kỳ.

Cũng như­ ngài giáo sư­ Minh Chi, trư­ờng Cao Cấp Phật Học Việt Nam, nghe nói đến việc tu viện Phật Giáo Trung Quốc có mở tiệm cầm đồ hay tổ chức sổ số thì kinh ngạc đến dãy nảy lên, cứ khăng khăng cho người viết là nói bậy, nói bạ, vu khống, vu oan cho Phật Giáo. Nếu Phật Giáo mở tiệm cầm đồ hay tổ chức vé số thì có gì là xấu? Mở tiệm cầm đồ thì có gì khác với tiệm cơm chay? Đơn giản chỉ vì không biết thông tin nào khác ngoài những điều mình vẫn t­ưởng tượng từ tr­ước, nên không thể tin được có một sự kiện như vậy. Cũng nh­ư Nguyễn Phúc Bửu Tập, chẳng biết gì về lịch sử Phật Giáo, lại đòi so sánh các ý niệm kinh tế học hiện đại với giáo lý Phật Giáo rồi đem gán bừa cho Phật Giáo là khuyến trợ phát triển (sđd:315-329, "Giáo lý Nhà Phật và Phát Triển Kinh Tế). Nực cư­­ời hơn là Nguyễn Phúc Bửu Tập lại trích dẫn Max Weber, một nhà xã hội học tôn giáo, có quan điểm hết sức tiêu cực về Phật Giáo vì Weber cho rằng Phật Giáo không thể giúp cho xã hội Ấn Độ về mặt phát triển kinh tế. Tôi sẽ phân tích điều này trong bài phê bình Nguyễn Phúc Bửu Tập.

1.2. Điểm sai lầm thứ hai, cũng rất cơ bản, là phân biệt tín ngưỡng, niềm tin tôn giáo và học thuật, nghiên cứu, tìm hiểu về tôn giáo đó. Thần học rất quan trọng đối với Thiên Chúa Giáo nhưng tín đồ Thiên Chúa Giáo không cần phải nghiên cứu Thomas Aquinas, Augustine, Eckhart, Anselm, Bonaventura, Bernard thì mới đến với Thiên Chúa đư­ợc. Cũng nh­ư tín đồ đạo Phật không cần nghiên cứu Lâm Tế, Đạo Nguyên (Dogen), Thân Loan, Pháp Nhiên, Duy Thức Học, Trung Quán Luận, thì mới phụng sự hành trì Phật Pháp đư­ợc. Như­ng nếu tự cho là ngư­ời am hiểu Phật Pháp với tư­ cách ngư­ời nghiên cứu thì phải chấp nhận tiêu chí đánh giá chung của cộng đồng học giả trong cùng ngành, phải biết sử dụng thành thạo các ngôn ngữ Phật Giáo (ít nhất cũng phải biết Pali và Sanskrit), phải tiếp cận đư­ợc với các văn bản Phật Giáo gốc (primary sources), có nghĩa là không phải học qua bản dịch của Phạm Kim Khánh nh­ư Lý Khôi Việt rồi tuyên bố đã hiểu Phật Pháp là gì, phải nắm vững các phư­ơng pháp luận hiện đại về nghiên cứu tôn giáo, về so sánh tỷ giáo, về lịch sử tôn giáo...v.v...

Nếu anh tuyên bố tin Chúa hay tin Phật Bà Quan Âm là đấng cứu rỗi, không ai tranh luận với anh, vì anh đang đứng trong phạm vi tôn giáo, tín ngưỡng, như­ng nếu anh tuyên bố rằng Chúa Giêsu đã có lúc sang Tây Tạng học hỏi Phật Giáo, thì anh đã b­ước sang lãnh vực học thuật và tôi có quyền tranh luận (dispute) để bác bỏ ý kiến đó. Không thể tiến hành một hành động vô lý theo  kiểu khi phê phán quan điểm trong thần họcThiên Chúa Giáo thì theo đúng góc độ duy lý khoa học (thí dụ đặt những câu hỏi ngu xuẩn nh­ư "Thượng Đế mày ngang mũi dọc ra sao? Có ai thấy mặt mũi, diện mạo của Ngài đâu?) như­ng khi biện hộ cho Phật Giáo lại nhảy sang phạm vi tôn giáo, tín ngư­ỡng: "Phật dùng tâm từ rải khắp thế gian... Phật Giáo là cao siêu, bất khả t­ư nghị". Nếu ngư­ời Thiên Chúa Giáo cũng hỏi ngư­ợc lại: "Ông Phật Di Lặc là Phật tư­ơng lai, ch­ưa có mặt, anh chư­a thấy, chư­a quen, ch­ưa biết, sao đã vội lập bàn thờ? Thời buổi y khoa tiến bộ này làm sao tin được việc cầu Quan Thế Âm Bồ Tát thì được sanh con trai, cầu Dư­ợc Sư­ Phật thì luôn khỏe mạnh, khỏi cần đi bác sĩ ?" thì trả lời sao đây? Nghĩa là không nên lẫn lộn hai phạm vi: tự biện, lý luận và phạm vi tín ng­ưỡng, tôn giáo.

1.3. Sai lầm thứ ba, thuộc phạm vi phương pháp luận nghiên cứu, liên quan đến việc sử dụng nguồn tư liệu để trích dẫn. Khi trích dẫn một tư liệu, hai điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất mà tư liệu đó phải thỏa mãn là tính quan hệ (relevance) và tính thẩm quyền (authoritativeness). Có nghĩa là tư liệu được trích dẫn phải quan hệ đến luận điểm đang thảo luận một cách nhất quán. Các "trí thức Phật Giáo" trong nhóm Giao Điểm trích dẫn một vài câu của Bertrand Russell, Einstein nói về Phật Giáo với thái độ khen ngợi để chứng minh rằng Phật Giáo phù hợp với khoa học hiện đại, thì không thỏa mãn yêu cầu của tính quan hệ khi trích dẫn. Russell và Einstein chống tất cả mọi hình thức tôn giáo mà hai ông cho là mê tín, phản lý trí, phản nhân bản, đi ngược tinh thần khoa học, không phải chỉ riêng có Thiên Chúa Giáo. Đó là thái độ trí thức căn bản của họ. Khi hai người có một vài nhận xét tích cực đối với Phật Giáo là vì họ tin rằng Phật Giáo là một tôn giáo vô thần. Về mặt này họ không khác với Đức Giáo Hoàng, nhưng Giáo Hoàng xem vô thần là xấu, còn họ xem vô thần là tốt là tiến bộ hơn hữu thần. Nhưng nếu hai đại bác học này mà chứng kiến cảnh Phật tử nhang khói xì xụp, lạy Phật vào các ngày lễ Phật, thì chắc chắn họ sẽ thay đổi ý kiến. Họ thích Phật Giáo hơn Thiên Chúa Giáo chỉ vì họ cho rằng  Phật Giáo duy lý hơn, có thái độ cởi mở hơn, và là một triết học hơn là một tôn giáo đúng nghĩa.

Đây là ngộ nhận khá phổ biến của nhiều trí thức phương Tây vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Như vậy trích dẫn Russell và Einstein là không có tính quan hệ. Đó là chưa kể nếu chúng ta thực sự hiểu được lý thuyết vật lý của Einstein thì mới ngã ngửa ra chính học thuyết của nhà đại bác học này, khi dùng để thuyên giải cơ cấu thực tại (the structure of reality), chỉ giống như triết học Phật Giáo thuộc hệ phái Nhất Thiết Hữu Bộ (Survastivada) nhưng hoàn toàn không phù hợp với duyên khởi luận Phật Giáo, và thuyết tính không trong Trung Quán Luận (Madhyamaka hay Sunyatavada). Về mặt thực tại luận, cơ học lượng tử (quantum mechanics) của Niels Bohr và Heisenberg mới thực sự đáng so sánh với triết học Phật Giáo. Tôi sẽ bàn đến điểm này trong một, bài khác.

Điều kiện thứ hai là tính thẩm quyền: cả hai đại bác học này, dù giỏi cỡ nào đi nữa, không phải là hai nhà nghiên cứu Phật Học và do dó chẳng hề có thẩm quyền gì trong lãnh vực này để được trích dẫn cả. Hiểu biết về Phật Giáo của họ cũng mơ hồ, lan man, chung chung và sơ đẳng như các "trí thức" Phật Giáo trong nhóm Giao Điểm. Trích dẫn họ để ủng hộ cho một vấn đề Phật Học cũng giống như khi muốn chứng minh là nhạc Beethoven hay lắm lại trích dẫn vài ba câu tuyên bố của ca sĩ Chế Linh trong một cuộc phỏng vấn cá nhân nào đó.

Một điều kiện bổ túc: tính thời gian của tư liệu được trích dẫn. Chẳng hạn ngài giáo sư Minh Chi, trường Cao Cấp Phật Học tại Việt Nam, khi trích dẫn quyển sách của Radhakrishnan, Eastern Religion and Western Thougth để bênh vực cho tư tưởng ấn Độ, không ý thức rằng đây là một tác phẩm quá xưa rồi (1936-1937, như chính Minh Chi viết, sđd:187), thuộc loại phế thải, chẳng học giả nào chuyên ngành triết học Ấn Độ lại dùng làm sách tham khảo có uy tín, để phản bác hay biện minh cho một vấn đề triết học nào đó. Khi trích dẫn một tài liệu đã cũ (trừ trường hợp các văn bản cổ đang là đối tượng nghiên cứu thì khác) chúng ta chỉ cho mọi người thấy một điều là bản thân đã lạc điệu với tinh thần nghiên cứu về lãnh vực đó đến mấy chục năm và như thế câu trích dẫn chẳng còn uy tín bao nhiêu nữa. Cũng như Lý Khôi Việt khi phản bác Đức Giáo Hoàng lại sử dụng một tài liệu vừa sơ đẳng (Đức Phật và Phật Pháp của Naranda Thera), vừa quá xưa, mất hết cả thời gian tính (ngay cả bản dịch tiếng Việt chắc chắn phải xuất hiện lâu sau nguyên tác, được ấn hành lần đầu năm 1964).

Nếu thợ săn chỉ cần nhìn dấu chân mà suy ra cả tiểu sử của con vật cần săn, thì người chuyên môn trong  ngành chỉ cần nhìn qua tư liệu trích dẫn liền hiểu ngay đây chỉ là một tay mơ tập tễnh vào nghề, tri thức còn nằm trong thời kỳ ngành học mới phôi thai. Tay mơ thì không có gì đáng trách, nhưng nếu tay mơ này lên giọng cao kỳ, khoác lác thì người chuyên môn lại phải tốn công nhắc anh ta nhớ vị trí thật sự của anh ta đang ở đâu.

l.4. Ngay cả một điều kiện tầm thường nhất của việc trích dẫn mà ai đặt bút viết cũng cần tôn trọng: đó là cố gắng bảo đảm khách quan tính của việc trích dẫn thì lập luận của mình mới tăng trọng lượng. Nhưng các "trí thức Phật giáo" thuộc nhóm Giao Điểm thì làm ngược lại: họ tự trích dẫn lẫn nhau để biện hộ cho một quan điểm nào đó. Trần Chung Ngọc khi phản bác học giả Như Hạnh thì trích dẫn Lê Hiếu Liêm, người cùng "băng" Giao Điểm với ông (giữa tiến sĩ luật Lê Hiếu Liêm và tiến sĩ Phật Học Như Hạnh, tại sao tôi phải tin ông Liêm nói đúng về một vấn đề Phật Giáo hơn ông Như Hạnh?).

Trần Văn Kha khi phản bác Đức Giáo Hoàng lại đi trích dẫn bác sĩ Nguyễn Văn Thọ, cũng nằm trong nhóm Giao Điểm, hay ít ra cũng chia sẻ quan điểm của nhóm này ("Phật Giáo và Giáo Hoàng", sđd:l04) thì giá trị khách quan đâu còn nữa. Đó là chưa kể tính thẩm quyền của Lê Hiếu Liêm hay bác sĩ Nguyễn Văn Thọ, hai người được trích dẫn. Hai người này là ai trong cộng đồng học thuật quốc tế, học lực ra sao, bằng cấp thế nào, đã xuất bản bao nhiêu công trình trong lãnh vực được trích dẫn (tức Phật Học hay thần học Thiên Chúa Giáo) mà lại được Trần Chung Ngọc và Trần Văn Kha trích dẫn như hai chuyên gia cao cấp có đầy đủ thẩm quyền về vấn đề đang thảo luận?

1.5. Khi trích dẫn tài liệu cần theo một phương pháp thống nhất: cần chú thích nguyên tác (nếu là tiếng nước ngoài), tên tác phẩm, năm tháng xuất bản lần đầu và năm các bản tái bản, tên nhà xuất bản, số trang... một điều quá sơ đẳng. Nhưng tôi ngờ rằng các “tiến sĩ” của nhóm Giao Điểm; ngay cả học B.A tại đại học Mỹ, không biết đã có trải qua hay chưa mà viết lách hết sức luộm thuộm, bê bối: hầu hết các nguồn trích dẫn là không đề nơi xuất xứ, khi thì có kèm theo tiếng Anh, khi thì không, khi có tên sách thì không có tên tác giả, khi có tên tác giả thì không biết là tên cuốn sách nào, khi có tên sách thì không biết từ trang nào, v.v... Tôi sẽ chứng minh đầy đủ nhận xét này khi bàn đến từng tác giả trong tập sách Đối Thoại.

1.6. Khi nghiên cứu một lãnh vực khó khăn như Phật Giáo, một trong những điều kiện tiên quyết là phải học các cổ ngữ liên hệ Sanskrit, Pali hay Tây Tạng. Hầu hết các nhà nghiên cứu Phật học hiện đại tại phương Tây đều nắm vững ba ngôn ngữ này. Việc hiểu biết ngôn ngữ giúp cho người nghiên cứu tránh những tiền giả định (presuppositions) thường phát sinh khi chỉ đọc qua bản dịch tiếng Anh, tiếng Pháp, hay trong chính ngôn ngữ mẹ đẻ. Rất nhiều người, ngay cả các tu sĩ Phật Giáo ít học, giải thích chữ “tùy hỉ thí” là muốn cho bao nhiêu thì cho, tùy hỉ, trong khi “tùy hỉ” (mudita) chỉ có nghĩa là “có cảm giác vui vẻ, an lạc khi thấy người khác làm phước” (sympathetic joy). Cũng rất nhiều người, ngay cả các tu sĩ Phật Giáo học nhiều, vẫn giải thích cụm từ “sở tri chướng” là học hành, trí thức nhiều quá sẽ gây chướng ngại cho việc giác ngộ - (Trần Chung Ngọc, tiến sĩ tại đại học Wisconsin, và Phạm Trọng Chánh, tiến sĩ đại học Paris, cũng như “thiền sư” Nhất Hạnh mà cả hai đều kính phục, đều hiểu “sở tri chướng” theo nghĩa này)." Trong khi đây là một thuật ngữ chuyên môn (technical term) trong ngành Duy Thức Học: jneyavarana. “Sở tri” (jneya) không phải là tri thức (knowledge) mà chỉ đối tượng của thức, tức là sự vật trong thế giới khách quan vẫn bị chìm theo quan điểm tam tự tính (Svabhavatraya) trong triết học Duy Thức. Khi trực nhận ra “viên thành thật tính” (bản chất, trung thực tròn đầy) của đối tượng tri thức, hiểu rằng sự vật khách quan không có tự tính độc lập, cái nhìn sẽ không còn bị vướng trở ngại nữa và con người được giải thoát về phương diện nhận thức (jnana).

Theo triết học Phật Giáo, một hành giả có thể đạt đến giải thoát bằng tâm (cetovimutti), giải thoát bằng trí tuệ (pannavimutti), hay bằng cả hai, tâm và trí (ubhatobhaga-vimutti). Khi hành giả nhận được tính giả lập trong thế giới hiện tượng (dharmanairamya), tri nhận được thực tính của chúng chỉ là không tính (sunyata), tức không có tự tính (nihsvabhava), hành giả đạt được giải thoát.

 


Sách Hiếm